Chương 1: Chương 1

3259 Chữ 12/06/2025
Kết quả tìm kiếm

Mưa đông từng hạt rơi lác đác từ chân trời, nhẹ nhàng lắng đọng mà triền miên.Trời đất đặc một màu xám lạnh mịt mù, giăng phủ lối con đường nhỏ giữa ruộng đồng. Nhìn ra phía xa xa không một bóng người qua lại.

Thân khoác áo tơi, đầu đội nón lá, Thôi Đề xách theo mớ da heo trong tay, lặng lẽ bước đi trên con đường bùn lầy giữa đồng nội.

Khu vực Kinh Châu nằm sâu trong lòng Giang Hán, khí hậu nơi đây ấm áp kéo dài, dù đã sang cuối thu vẫn còn chút hơi nóng còn sót lại. Nhưng nay, trời đã vào Đông được gần một tháng, cái nắng trong dịu nhẹ của mùa thu cũng bị những cơn mưa nối tiếp nhau cuốn trôi sạch sẽ.

Mưa rơi rả rích chẳng ngừng, con đường đất ngấm nước mưa trở nên nhão nhoẹt, trộn với bùn thành một đống nhầy nhụa dính nhớp. Bước chân giẫm xuống, cả giày cũng bị kéo tụt lún sâu.

Đi ngang qua một dãy nhà tranh thấp bé, cuối cùng cũng đến một trang viện nằm giữa đồng. Thôi Đề cúi người xuống nhấc lên vòng sắt dưới đầu thú trên cửa, gõ cộc cộc ba tiếng.

Chẳng bao lâu sau, bên trong phát ra tiếng kẹt nhỏ, cánh cửa gỗ bật mở ra, một thiếu niên ló mặt ra ngoài: “Thôi lang quân đến rồi.”

Vừa nhìn thấy rõ gương mặt người đến, thiếu niên liền vội vàng mở rộng cửa, mời Thôi Đề bước vào trong. Thôi Đề tháo nón, cởi áo tơi rồi đưa cả hai thứ ấy cho vị thiếu niên.

“Bạch Túc, hôm nay tiểu nương nhà ngươi có ở nhà không?”

Bạch Túc gật đầu lia lịa: “Hôm nay trời mưa lớn, tiểu nương vẫn luôn ở trong nhà. Nãy giờ chỉ ra ngoài đứng ngắm mưa một lát, rồi lại vào trong rồi.”

Nói đoạn, Bạch Túc dẫn Thôi Đề bước vào sảnh chính. Trước cửa phòng khách treo một tấm rèm trúc thả xuống tận đất, phía sau còn kê thêm một bức bình phong bằng gỗ mộc mạc, để ngăn gió lùa từ ngoài vào.

Yến Nam Kính ngồi ở sâu trong phòng, bên cạnh đặt một chiếc lò sưởi nhỏ sưởi ấm. Chiếc thảm tre trải sẵn trên sạp gỗ đã được thay bằng một tấm đệm vải dày. Trên đó kê một chiếc kỷ thấp, đặt vài món vật dụng nho nhỏ.

Thôi Đề vòng qua bình phong, lúc này mới nhìn thấy nữ tử đang ngồi bên trên.

Trên chiếc án gỗ bên cạnh nàng đặt vài chiếc đèn đồng hình đậu, ánh sáng vàng từ ngọn đèn chiếu nghiêng lên gò má nàng. Nghe thấy tiếng động ở tấm rèm, nàng khẽ ngẩng đầu lên nhìn. Đèn lửa ngày đông cháy mờ nhạt, vậy mà khuôn diện kia vẫn rực rỡ đến mức khiến người ta khó lòng rời mắt.

“Tri Thiện.” Thôi Đề khẽ gọi một tiếng, giọng đầy dè dặt. Hắn đứng phía trước bức bình phong, ngượng ngùng phủi nhẹ lớp nước lạnh bám trên áo mình.

Yến Nam Kính vẫn ngồi nơi đó, nhẹ nhàng đặt tay lên lò sưởi. Nghe thấy giọng nói quen thuộc, nàng quay lại nhìn, khẽ mỉm cười rạng rỡ: “Ngươi đến rồi à?”

Nữ tử trước mắt đang ở độ tuổi đẹp của đời người, trên thân khoác váy áo giản dị, song lại rất sạch sẽ trang nhã. Gương mặt không son phấn, mái tóc dài đen tuyền chỉ dùng một cây trâm gỗ tùy tiện búi gọn, chẳng hề tô điểm cầu kỳ. Tuy trong phòng ánh sáng mờ tối, nhưng khi nàng ngồi đó, vẫn sáng rỡ một cách lạ thường.

“Ta hôm nay kiếm được ít đồ này, mấy hôm trước nghe ngươi nói muốn có ít da heo, nên cố ý mang đến cho ngươi.”

Thấy Yến Nam Kính liếc nhìn đồ trong tay mình, sắc mặt Thôi Đề càng thêm lúng túng.

Heo là thứ động vật hạ tiện, thường nuôi ở nơi như gần nhà xí, thường ăn đồ hôi thiu mà sống. Những gia đình phú quý có điều kiện đều sẽ tránh xa thịt heo, thay vào đó dùng thịt dê thanh sạch hơn.

Khóe môi Thôi Đề giật giật, gượng nở một nụ cười ngượng ngùng, trong lòng bắt đầu hối hận vì đã mang mấy thứ kia lên tận sảnh đường. Lẽ ra nên nhờ Bạch Túc nhận lấy ngay từ bên ngoài mới phải.

Yến Nam Kính đứng dậy, bước đến trước mặt hắn, môi hé nụ cười tươi tắn: “Ta đang đau đầu vì không biết tìm da heo ở đâu ra, vậy mà ngươi lại đưa tới tận nơi. Thật chẳng biết phải cảm tạ ngươi thế nào cho phải.”

Vừa nói, nàng vừa vươn tay định nhận lấy mớ đồ trong tay hắn. Thấy nàng thật sự định tự mình cầm lấy, Thôi Đề vội vã lùi sang bên, tránh khỏi tay nàng. Mớ da heo này tuy đã được hắn nhờ phòng bếp rửa đi rửa lại vài lượt, nhưng trong lòng hắn vẫn cảm thấy bẩn thỉu.

Thứ hạ tiện thế này, sao có thể để nàng chạm tay vào?

“Việc này sao ngươi lại đích thân làm chứ.”

Một giọng nói cười vang xen vào: “Vẫn nên để ta làm thì hơn.”

Chỉ thấy một nữ phụ nhân vén rèm trúc bước vào, mặt mày hiền hậu, mỉm cười đón lấy dây cỏ buộc da heo trong tay Thôi Đề.

“A Nguyên, đi lấy một chiếc lò sưởi đến đây.” Yến Nam Kính nói, giọng ôn hòa.

Đôi mắt nàng long lanh, nét cười dịu dàng như gió xuân. Khi nàng mỉm cười, hai bên má thấp thoáng hiện lên đôi lúm đồng tiền nhàn nhạt.

Người phụ nhân tên A Nguyên dạ một tiếng, chẳng bao lâu sau liền mang tới một chiếc hỏa lô vừa mới đốt.

Hỏa lô là vật dụng thiết yếu vào mùa đông ở các châu quận phía Nam. Thân làm bằng nan tre đan thành dạng thùng tròn có quai xách, bên trong đặt một bình gốm vừa vặn, chứa đầy than củi đang cháy hừng hực, vừa để giữ ấm, vừa tiện cầm tay.

“A huynh có gửi thư về, nói rằng đông năm nay sẽ rét hơn những năm trước.” Yến Nam Kính nói.

Thôi Đề đặt hai tay lên hỏa lô trước mặt, cảm nhận hơi nóng đang tỏa ra từ lửa than đỏ hừng bên trong. Đôi má của Yến Nam Kính bên kia cũng được ánh lửa sưởi ấm đến ửng hồng.

Nàng khum nhẹ đôi tay trên miệng hỏa lô, nhẹ nhàng xoa xoa ngón tay.

Dưới ánh sáng đỏ của lửa, đầu ngón tay trắng trẻo của nàng như nhuốm một tầng hồng nhạt, mỏng manh mà rực rỡ.

“Dương lang quân thực sự nói vậy sao?” Thôi Đề lảng mắt khỏi đôi tay nàng, có chút bối rối, buột miệng hỏi.

Yến Nam Kính gật đầu: “Huynh ấy được A ông ta chân truyền, nếu đã nói vậy, hẳn là mười phần chắc chín.”

Thôi Đề nghe vậy, trên mặt không khỏi hiện lên vài phần kính phục thật lòng: “Ta từng tận mắt chứng kiến bản lĩnh của Trần tiên nhân, nếu Dương lang quân đã nói, thì chắc chắn là thật.”

Vừa nói, hắn vừa đưa tay sưởi ấm bên hỏa lô, động tác có phần chậm rãi, trong mắt lộ vẻ cảm thán: “Nếu vậy, chiến sự năm nay không biết sẽ trở nên ra sao đây.”

Thôi Đề nhắc đến Trần tiên nhân, kỳ thực chính là một vị đạo sĩ du phương đến nơi này từ hai ba mươi năm trước.

Thế đạo trong mấy chục năm trở lại đây chưa bao giờ được an ổn. Ba mươi năm trước, các chư vương nhân danh “thanh quân trắc” nổi dậy làm loạn, triều đình và các vương gia đánh nhau sống mái. Còn chưa kịp dẹp yên được loạn vương, các thứ sử địa phương đã nhân cơ hội đó, liên kết cùng các phú hào, mượn cớ bình loạn mà tụ hợp binh lính.

Triều đình Lạc Dương dốc toàn lực vào chiến sự với các chư vương, đến mức kiệt sức rã rời. Sau mấy lần hỏi tội đám thứ sử mà không thành, triều đình đành tạm gác lại chuyện ấy, chuyên tâm đối phó chư vương trước. Miễn là bọn thứ sử ấy không chính thức phản nghịch, triều đình tạm thời cũng nhắm mắt làm ngơ.

Ai ngờ cục diện biến chuyển vượt ngoài dự liệu. Những thứ sử cậy binh lực làm kiêu, không những không cam phận thủ thành, mà còn tranh giành lẫn nhau, thậm chí không ít kẻ còn động binh với cả hoàng tộc để cướp lấy lãnh địa.

Thiên hạ hỗn loạn như một nồi canh hẹ. So với Trung Nguyên nơi binh gia tranh đoạt từng tấc đất thì vùng Ngô Sở phía Nam lại coi như yên ổn đôi phần. Vì vậy, vô số lưu dân thất tán kháo nhau kéo theo cả gia quyến, từ Trung Nguyên xuôi Nam lánh nạn.

Kinh Châu nằm nơi yết hầu, là cửa ngõ Nam hạ. Đám người lưu dân trốn loạn đi ngang qua đây, có người tiếp tục đi tiếp, có kẻ thì an cư luôn tại đất này.

Trần đạo sĩ cũng đến trong giai đoạn ấy, nguyên danh là Trần Uân. Ông chưa từng nói rõ quê quán của mình, mà cũng chẳng ai bận tâm lấy điều đó. Ông là người có học, thông hiểu văn tự, lại giỏi y thuật, chữa bệnh bốc thuốc rất mực cao minh.

Vì thế ông được tam lão địa phương mời lưu lại, vừa dạy dân biết chữ, vừa hành y cứu người.

Thế nhưng có một năm, Trần Uân đột nhiên bế môn không tiếp khách, không tiếp tục chữa bệnh nữa. Dù có khách quý đến cầu khẩn, ông cũng chỉ cười lắc đầu: “Tuổi già, trí kém, nhớ không rõ dược tính, cũng chẳng phân biệt nổi huyệt vị nữa.” Bất kể quý tiện sang hèn, đều bị từ chối ngoài cửa. Việc ấy kéo dài cho đến khi ông qua đời.

Dẫu vậy, tài năng của ông vẫn được người dân trong vùng truyền tụng không dứt. Nhất là năm ấy, ông tiên đoán sẽ có đại hạn, khuyên tam lão sớm tích trữ lương thực, còn căn dặn mùa thu chớ gieo giống trồng trọt.

Khi ấy tam lão nghe theo, tổ chức cho dân chúng dự trữ thóc gạo. Nhưng cũng có người bất mãn, cho rằng một đạo sĩ từ phương Bắc đến mà dám múa mép chỉ bảo, liền bỏ ngoài tai lời khuyên ấy, vẫn cứ theo lệ cũ mà trồng cấy vụ mùa thu.

Rốt cuộc đúng như lời ông tiên đoán, sau tiết Lập Thu, nắng nóng cuồn cuộn, chẳng thấy mảy may mưa rơi suốt hai ba tháng trời. Ruộng đồng nứt nẻ, cây lúa chẳng thu được một hạt. Từ đó về sau, danh tiếng Trần Uân lẫy lừng khắp vùng.

Ông cả đời không cưới thê, nhưng lại nuôi nấng hai đứa trẻ, một trai một gái đều là trẻ mồ côi trong đám lưu dân, đem về nuôi như con ruột. Dù vậy, ông không bắt họ đổi họ theo mình, vẫn để hai đứa giữ nguyên danh tính như thuở ban đầu.

Chính vì được ông một tay dưỡng dục, nên đôi nhi nữ ấy cũng được truyền thụ y thuật tinh thâm của ông.

“Chiến sự ngoài Kinh Châu vẫn chưa dứt sao?” Yến Nam Kính vừa nói, vừa đặt một trái quýt lên than hồng trong hỏa lô đã lụi dần.

Quýt ấy hái từ hai cây trồng trong vườn nhà, sau vụ thu hoạch thì đem cất kỹ trên cao. Đến mùa đông mới đem ra dùng, là thứ quý giá chẳng dễ có được.

Từ nhỏ, nàng đã được Trần Uân dạy dỗ, phải yêu thương cơ thể bên trong. Tránh những đồ ăn lạnh khiến thương tổn đến tỳ khí, làm hao tổn căn nguyên. Nhất là nữ tử, vốn thể chất yếu, khí huyết dễ tổn hư, nếu sơ suất sẽ ngàn bệnh phát sinh.

 

Mục lục